Có thể nói rằng, đường lối công nghiệp hóa (CNH) đất nước đã được hình thành từ Đại hội III của Đảng (tháng 9-1960), đến trước khi thực hiện đường lối đổi mới, chủ trương của Đảng ta vẫn là “ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ” (Đại hội IV, tháng 12-1976). Để giải quyết những nhu cầu cấp bách của đất nước cũng như đời sống của người dân đặt ra, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã hướng trọng tâm vào thực hiện mục tiêu 3 chương trình kinh tế lớn, bao gồm sản xuất lương thực - thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, tiến hành CNH theo cơ chế kết hợp kế hoạch với thị trường. Đến Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, Đảng ta khẳng định rõ yêu cầu của tiến trình CNH là kết hợp chặt chẽ CNH với hiện đại hóa (HĐH), đồng thời xác định mục tiêu “công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Đến Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (năm 1994), lần đầu tiên Đảng đưa ra khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Nhận thức về CNH, HĐH là một quá trình lâu dài, trong đó có những giai đoạn với những mục tiêu và ưu tiên khác nhau, song mục tiêu lâu dài được Đảng xác định rõ đó là “cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Điều này đã thể hiện được một bước tiến đáng kể trong tư duy lý luận của Đảng về tính chất, vai trò, mục tiêu và nội dung của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Qua mỗi kỳ Đại hội Đảng sau đó, từ Đại hội VIII (năm 1996) , Đại hội IX (năm 2001), Đại hội X (năm 2006) và Đại hội XI (năm 2011), Đảng ta từng bước tiếp tục tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển tư tưởng lý luận và bổ sung nhận thức ngày càng rõ hơn về nhiều mô thức CNH, HĐH khác nhau, chẳng hạn như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; CNH, HĐH rút ngắn, gắn với kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế,... Những yêu cầu về mục tiêu, nội dung, bước đi và cả nguồn lực để bảo đảm thực hiện CNH, HĐH đã được đặt ra trong chủ trương, đường lối của Đảng nhằm bảo đảm phù hợp với tình hình cụ thể trong nước và quốc tế ở từng giai đoạn.
Qua thực tiễn gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, đặc biệt là chính sách CNH, HĐH đất nước cho thấy, cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch tích cực, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 38,1% (năm 1986) xuống mức 18,4% (năm 2013), trong khi tỷ trọng khu vực công nghiệp đã tăng từ 28,9% lên 38,3%, và tỷ trọng của khu vực dịch vụ cũng tăng từ 33,1% lên 43,3%. Trong quá trình thực hiện chiến lược phát triển đã hình thành một số vùng kinh tế trọng điểm, giữ vai trò là động lực tăng trưởng, có tác động lan tỏa từ trung tâm đến ngoại vi, tạo điều kiện khai thác, sử dụng hiệu quả các tiềm năng cũng như lợi thế cạnh tranh của từng vùng. Quá trình CNH kéo theo quá trình đô thị hóa và sự dịch chuyển cơ cấu lao động và kết cấu dân cư. Nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu đô thị lớn được hình thành trên phạm vi cả nước thu hút sự tham gia mạnh mẽ của các thành phần kinh tế, các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, từ nông thôn ra thành thị; tạo dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hỗ trợ phát triển công nghiệp, đô thị tương đối đồng bộ và hiện đại, đóng góp quan trọng vào việc làm tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ với tốc độ cao trong một thời gian dài. Nhờ đó kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, cơ cấu hàng xuất khẩu có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, giá trị hàng công nghiệp chế biến và chế tạo tăng liên tục với tốc độ bình quân trên 9%/năm trong giai đoạn năm 2008 - 2012. Đến nay, tỷ trọng giá trị hàng chế biến hoặc đã tinh chế chiếm trên 65% tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa, cao hơn gấp đôi so với những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX. Sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành công nghiệp và dịch vụ cũng đã làm tăng năng suất lao động của toàn xã hội, đồng thời nhờ ứng dụng các tiến bộ của khoa học và kỹ thuật mới trong nông nghiệp đã góp phần cải thiện đáng kể năng suất lao động trong nông nghiệp. Sự hội nhập ngày càng sâu rộng và toàn diện của nền kinh tế đất nước vào kinh tế toàn cầu cùng với xu hướng toàn cầu hóa đã mang lại cho nước ta những cơ hội lớn trong phát triển nhưng cũng xen lẫn với nhiều thách thức không hề nhỏ. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) liên tục chảy vào nền kinh tế trong hàng chục năm từ khi tiến hành đổi mới, đặc biệt từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Điều này không chỉ cho thấy môi trường đầu tư của Việt Nam đang ngày càng được cải thiện, mà môi trường chính trị và xã hội cũng ổn định đã góp phần đưa Việt Nam trở thành một điểm đến an toàn của các nhà đầu tư quốc tế. Theo chân các dòng vốn FDI chính là nền tảng tri thức, kinh nghiệm quản trị, và công nghệ tiên tiến của thế giới được ứng dụng và triển khai, tạo cơ hội cho việc tiếp thu, học hỏi, sáng tạo và phát triển cho nền kinh tế nội địa. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng cũng có nghĩa là sẽ có nhiều cơ hội lớn hơn để tiếp cận thị trường toàn cầu nhưng cũng nhiều rủi ro một khi kinh tế thế giới gặp biến động. Các hiệp định kinh tế song phương lẫn đa phương mà Việt Nam đã và đang tham gia giúp cho việc tiếp cận thị trường quốc tế dễ dàng hơn đối với nhiều doanh nghiệp trong nước, nhưng cũng đặt ra các thách thức sống còn đối với các doanh nghiệp ngay cả ở thị trường trong nước.
Có thể nói rằng nền kinh tế nước ta đã có quá trình hội nhập rất nhanh và ngày càng sâu rộng trên nhiều bình diện và cấp độ khác nhau. Quá trình đó tạo ra độ mở ngày càng lớn cho nền kinh tế, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu chiếm trên 160% GDP năm 2013 so với khoảng 23% năm 1986, đưa nền kinh tế từng bước gắn kết vào mạng lưới sản xuất, cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, qua đó từng bước nâng cấp nền kinh tế, tạo động lực thực hiện các cải cách trong nước, như môi trường thể chế và chính sách, nhằm giúp cải thiện không gian kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc gia.
Một thành công quan trọng nữa của nước ta qua gần 30 năm đổi mới, trong đó có vai trò to lớn của CNH, HĐH, đó là đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội... Những thành tựu của CNH, HĐH đã góp phần quan trọng làm cho đời sống nhân dân được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được giữ vững, tiềm lực và vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chiến lược CNH, HĐH ở nước ta còn nhiều khiếm khuyết và bất cập, thể hiện trên một số vấn đề chính như sau:
Một là, mô hình CNH, HĐH nước ta chưa bắt kịp với những thay đổi quốc tế, nội hàm chưa thật sự rõ ràng; chưa định hình được rõ chính sách công nghiệp quốc gia trong bối cảnh mới về cả mục tiêu, phương hướng và nguồn lực; chưa phát triển có hiệu quả các ngành công nghiệp ưu tiên và các ngành công nghiệp hỗ trợ; sự phát triển của doanh nghiệp còn mang tính chất phong trào, manh mún, chưa tạo được sự gắn kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước; chưa tận dụng được những lợi thế về công nghệ từ đầu tư nước ngoài để tạo sự lan tỏa, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển tương xứng.
Hai là, quá trình thực hiện CNH chưa gắn với HĐH, chưa sản xuất được những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hàm lượng nội địa lớn; phát triển công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công - lắp ráp, giá trị gia tăng thấp và phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài. Nhiều ngành công nghiệp được cho là Việt Nam có nhiều ưu thế với thị phần tốt nhưng lại chủ yếu dựa trên các lợi thế so sánh bậc thấp, như sử dụng nhiều lao động giản đơn, sử dụng nhiều tài nguyên, đất đai,... ít dựa trên những lợi thế mới, như công nghệ cao, tri thức, lao động có kỹ năng,... Vì vậy, đóng góp của năng suất các yếu tố tổng hợp trong giá trị sản xuất tạo ra còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực bỏ ra, thậm chí có phần suy giảm trong những năm gầy đây. Chính vì vậy, tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong những năm gần đây, thường ở mức thấp khá xa so với mức tăng trưởng tiềm năng mà nền kinh tế có thể đạt được.
Ba là, chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp triển khai còn chậm và cũng chưa thật sự hiệu quả, rõ hướng, thiếu sự liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến - chế tạo; giữa sản xuất với thị trường; giữa đào tạo lao động với sử dụng lao động gắn với chuyển dịch lao động,... nên sự phát triển còn có phần tự phát, gây lãng phí nguồn lực, chưa phát huy một cách hiệu quả những tiềm năng to lớn của nông nghiệp cho phát triển công nghiệp.
Bốn là, kết cấu hạ tầng, mặc dù được ưu tiên dành nguồn lực đầu tư nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu, không đồng bộ. Cơ chế, chính sách chưa đủ sức tạo ra những động lực thúc đẩy các doanh nghiệp và các chủ thể khác thực sự đi sâu vào ứng dụng, phát triển, chuyển giao các kỹ thuật - công nghệ mới. Lực lượng lao động tuy tăng nhanh nhưng nhìn chung trình độ, kỹ năng đa phần ở mức thấp, thiếu hụt lớn nguồn nhân lực chất lượng cao trước yêu cầu phát triển.
Năm là, nguồn lực đầu tư để thực hiện CNH còn dàn trải, thiếu trọng tâm, chưa khai thác được lợi thế kinh tế theo quy mô. Trong nhiều vùng kinh tế trọng điểm, khu kinh tế, khu công nghiệp, do quy hoạch không hợp lý hoặc do duy ý chí nên không phát huy được tiềm năng, thế mạnh của vùng cũng như hiệu quả hoạt động; sự liên kết vùng phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế địa phương còn lỏng lẻo, hiệu quả thấp; việc quy hoạch xây dựng các khu, cụm công nghiệp không gắn với tư duy phát triển theo hướng cụm ngành,... Nói chung, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được mô hình phát triển phù hợp để có thể tránh được bẫy thu nhập trung bình, như nhiều nước đi trước đã và đang mắc phải.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động ngày càng sâu rộng tới mỗi quốc gia, trên cơ sở các bài học kinh nghiệm về CNH, HĐH trong gần 30 năm đổi mới, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh CNH đất nước theo hướng hiện đại với những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, nhận diện một cách đúng đắn những hạn chế, yếu kém và những khó khăn thách thức trong quá trình CNH. Rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn. Từ đó xác định thời gian tới cần điều chỉnh cơ chế, chính sách, hướng ưu tiên nguồn lực vào những ngành và lĩnh vực nào để có thể tạo nền tảng vững chắc thực hiện mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Lựa chọn những kinh nghiệm quốc tế phù hợp từ những nước có chính sách công nghiệp hợp lý và đúng đắn để tham khảo, vận dụng cho Việt Nam hướng đến năm 2020 và tầm nhìn xa hơn.
Thứ hai, yêu cầu chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài gắn kết với chiến lược thúc đẩy kinh tế trong nước để phát huy ưu thế về vốn, công nghệ, năng lực quản trị,... của khu vực FDI nhằm giúp thúc đẩy các khu vực khác của nền kinh tế cùng phát triển, đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế nông nghiệp hộ gia đình. Qua đó dẫn dắt các doanh nghiệp nội địa tham gia các mắt xích cung ứng quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu, nhằm thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước.
Thứ ba, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ hiện nay của nước ta, qua đó đề ra chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể để phát triển trong thời gian tới sao cho công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ là một thành tố then chốt trong chiến lược CNH quốc gia.
Thứ tư, đề xuất giải pháp đột phá để tiếp tục tháo gỡ ba nút thắt tăng trưởng hiện nay gồm kết cấu hạ tầng, vấn đề thể chế và chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt là khuyến khích, thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; thúc đẩy tăng năng suất các yếu tố tổng hợp, huy động nguồn lực tư nhân để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thông qua mô hình đối tác công tư PPP,...
Thứ năm, xác định cụ thể thước đo sự thành công của CNH đối với từng vùng, địa phương để phát huy tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của mỗi vùng và địa phương, bảo đảm tính bền vững và triển khai theo quy hoạch. Tránh tình trạng các tỉnh, thành phố chạy đua thực hiện CNH theo phong trào hoặc vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua tiềm năng, thế mạnh, lợi thế cạnh tranh của địa phương mình, hoặc thậm chí làm suy yếu lợi thế cạnh tranh của địa phương khác.
Con đường CNH của nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng với tinh thần quyết tâm cao độ, chung sức đồng lòng đẩy mạnh cải cách thể chế, khẩn trương thực hiện chương trình tái cơ cấu kinh tế đã đề ra, nhất định Việt Nam sẽ thành công trên con đường trở thành nước CNH theo hướng hiện đại mà Đảng đã xác định và kỳ vọng./.
Nguyễn Xuân PhúcỦy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ