|
|
Liên kết website
Tỉnh ủy, UBND tỉnh Sở, ban, ngành UBND huyện, thị xã UBND phường, xã VĂN BẢN QPPL TRUNG ƯƠNG VĂN BẢN QPPL CẤP TỈNH, THỊ XÃ
| | |
An sinh xã hội là nền tảng cơ bản của bình đẳng giới Ngày cập nhật 23/05/2015
Bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) cho người dân là một chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Ðảng và Nhà nước ta. Tại Kỳ họp thứ 5, BCH T.Ư Ðảng Khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 15 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020. Tiếp đó, ngày 1-11-2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 70 về kế hoạch hành động của Chính phủ nhằm thực hiện Nghị quyết số 15. Có thể thấy, hai Nghị quyết quan trọng này một lần nữa khẳng định cam kết của Ðảng và Nhà nước ta về bảo đảm ASXH cho mọi người dân. Trong đó, phụ nữ và trẻ em gái là những đối tượng được thụ hưởng từ những chính sách này.
Bốn nhóm chính sách ASXH cơ bản bao gồm: bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo; chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH); trợ giúp xã hội; tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản. Các chuyên gia cho rằng hệ thống chính sách về thị trường lao động trong khuôn khổ ASXH khá hoàn chỉnh gồm chính sách phát triển thị trường lao động; tín dụng ưu đãi hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm; đào tạo nghề, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Những chính sách này nhằm hỗ trợ phụ nữ nâng cao cơ hội tìm kiếm việc làm, tuy nhiên "định kiến giới" và những thách thức về bình đẳng giới vẫn còn tồn tại, dẫn đến việc phụ nữ bị "hạn chế" trong việc tham gia và hưởng thụ những chính sách về ASXH. Ðiển hình là trong thị trường lao động, tỷ lệ phụ nữ làm việc tại khu vực phi chính thức cao, trong khi thu nhập, tỷ lệ được đào tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật...luôn thấp hơn nam giới... Ðây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ phụ nữ tham gia BHXH ít hơn nam giới. Lao động nữ luôn chiếm gần 50% lực lượng lao động xã hội, nhưng theo báo cáo "Ðánh giá thực trạng tiếp cận ASXH cho phụ nữ và trẻ em gái giai đoạn 2002-2012" của UN Women (Tổ chức Phụ nữ LHQ) phối hợp Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho thấy, đến năm 2012 chỉ có 140 nghìn phụ nữ tham gia BHXH, chiếm 0,3% lực lượng lao động xã hội. Qua đó cho thấy số nữ tham gia BHXH tự nguyện cũng rất ít ỏi so với nguyện vọng thực tế.
Một số quy định, chính sách còn bất cập khiến phụ nữ gặp nhiều khó khăn, thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ ASXH. Thí dụ trong thiết kế chính sách đối với BHXH tự nguyện chỉ quy định hai chế độ: hưu trí và tử tuất, còn ba chế độ ngắn hạn rất quan trọng đối với lao động nữ là thai sản, ốm đau, tai nạn lao động thì lại không được hưởng. Ðây chính là rào cản của chính sách đối với phụ nữ. Thêm vào đó, phụ nữ di cư gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình... Vẫn còn khoảng cách lớn về giáo dục, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản giữa phụ nữ, trẻ em gái ở thành thị-nông thôn; đồng bằng-miền núi; giữa vùng kinh tế phát triển và kém phát triển... Hàng loạt chính sách hỗ trợ nhà ở cho các đối tượng hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai nhưng đối tượng nữ lao động tại các khu chế xuất, công nghiệp luôn chiếm 70 đến 85% lao động lại đang gặp khó khăn khi phải ở trong những căn nhà trọ tạm bợ, thiếu an toàn, thiếu các dịch vụ cơ bản cho cuộc sống.
Muốn đạt được mục tiêu ASXH cần thực hiện lồng ghép các mục tiêu bình đẳng giới vào quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết 15 và Nghị quyết 70 ở các cấp, thông qua tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cơ quan liên quan về lồng ghép giới trong ASXH. Ban hành hệ thống theo dõi đánh giá các mục tiêu bình đẳng giới trong Nghị quyết 15 về ASXH. Các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu xóa bỏ, sửa đổi các quy định gây bất lợi đối với phụ nữ và trẻ em gái. Chính phủ nghiên cứu, phát triển các sản phẩm dịch vụ theo bốn nhóm chính sách cơ bản của hệ thống ASXH, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của phụ nữ và trẻ em. Theo đó, tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào thị trường lao động, đào tạo nghề, tín dụng, thông tin thị trường lao động. Hoàn thiện loại hình bảo hiểm tự nguyện với các dịch vụ đáp ứng nhu cầu đặc thù của phụ nữ. Cùng với đó, xây dựng tiêu chuẩn dịch vụ xã hội cơ bản đáp ứng giới; nâng cao khả năng tiếp cận của đối tượng phụ nữ yếu thế đối với các dịch vụ xã hội cơ bản... Bên cạnh đó, tăng cường phối hợp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật lao động, BHXH, công đoàn, trong đó có kiểm tra, giám sát thực hiện những quy định riêng đối với lao động nữ. LAN HƯƠNG Các tin khác
|
Uỷ ban nhân dân phương Hương Xuân công khai dự toán... |
| |
Năm 2020, đại dịch COVID -19 bùng phát đã tác động... |
| |
|
|
|
| Thống kê truy cập Truy câp tổng 12.311.832 Truy câp hiện tại 3.998
|
|