Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố Báo cáo Môi trường Kinh doanh 2020. Trong 190 nền kinh tế được đánh giá, Việt Nam đạt 69,8 điểm trên 100, cao hơn năm ngoái (68,36), nhưng lại tụt một bậc xuống thứ 70.
Điểm số và vị trí xếp hạng của của Việt Nam với 10 tiêu chí: Thành lập doanh nghiệp, Xin giấy phép xây dựng, Tiếp cận điện năng, Đăng ký tài sản, Vay vốn, Bảo vệ lợi ích nhà đầu tư thiểu số, Nộp thuế, Giao thương quốc tế, Thực thi hợp đồng và Xử lý khi mất khả năng thanh toán.
Trong khảo sát năm nay, WB chấm điểm và xếp hạng các nền kinh tế dựa trên 10 tiêu chí, gồm Thành lập doanh nghiệp, Xin giấy phép xây dựng, Nộp thuế, Tiếp cận điện năng, Bảo vệ lợi ích nhà đầu tư thiểu số, Giao thương quốc tế, Thực thi hợp đồng, Đăng ký tài sản, Vay vốn và Xử lý khi mất khả năng thanh toán. 2 tiêu chí khác là Thuê nhân công và Hợp đồng với Chính phủ cũng được nghiên cứu nhưng không dùng để chấm điểm.
Với Việt Nam, những lĩnh vực được WB đánh giá có cải cách, giúp việc kinh doanh dễ dàng hơn là Vay vốn và Nộp thuế. Hầu hết lĩnh vực tăng điểm so với năm ngoái. Có thứ hạng cao nhất là Xin giấy phép Xây dựng (xếp thứ 25), và thấp nhất là Xử lý khi mất khả năng thanh toán (122).
Báo cáo của WB nghiên cứu đối tượng tiêu chuẩn là một công ty TNHH tại TPHCM. Theo đó, tổng số thủ tục hành chính công ty này phải thực hiện khi thành lập doanh nghiệp là 8. Con số này cao hơn trung bình khu vực Đông Á – Thái Bình Dương (6,5).
Trong khu vực Đông Nam Á, xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam nằm ở khoảng giữa. Xếp trên là Singapore (2), Malaysia (12) và Thái Lan (21) và Brunei (66).
Đứng vị trí số một năm nay vẫn là New Zealand. Theo sau là Singapore, Hong Kong (Trung Quốc), Đan Mạch và Hàn Quốc. Mỹ giữ vị trí thứ 6 trong bảng xếp hạng này.
Báo cáo của WB đánh giá 115 trên 190 nền kinh tế trên thế giới đã thực hiện các cải tổ để giúp việc kinh doanh đơn giản hơn. Theo thống kê, 190 quốc gia đã thực hiện kỷ lục 294 cải tổ giai đoạn tháng 5/2018 – 5/2019.
Theo dữ liệu của WB, trong năm qua, các nền kinh tế khu vực Đông Á–Thái Bình Dương đã tiến hành 33 chương trình cải cách về môi trường kinh doanh. Dù nhiều nền kinh tế trong khu vực được đánh giá có môi trường thuận lợi hơn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ so với mặt bằng chung thế giới, nhưng xét về tổng thể tốc độ cải cách đang chậm lại. Số cải cách trong khu vực đã giảm đi 10 cải cách trong vòng 12 tháng qua tính đến ngày 1/5 và chưa tới một nửa số nền kinh tế (12 trên 25) có thực hiện cải cách.
Trung Quốc và Ấn Độ vẫn nằm trong nhóm 10 nền kinh tế tiến hành nhiều cải cách nhất trong năm qua để cải thiện môi trường kinh doanh. Tám nền kinh tế khác trong danh sách cải thiện môi trường kinh doanh tích cực nhất là Saudi Arabia, Jordan, Togo, Bahrain, Tajikistan, Pakistan, Kuwait và Nigeria.
Tuy nhiên, WB cho rằng khu vực Đông Á - Thái Bình Dương vẫn còn ghi nhận nhiều yếu kém trong một số lĩnh vực như giải quyết tranh chấp hợp đồng, giải quyết phá sản doanh nghiệp và giao dịch thương mại xuyên biên giới. Các chỉ số này cho thấy khoảng cách khác biệt lớn giữa các nền kinh tế trong khu vực.
Ví dụ, ở Myanmar phải mất tới 1.160 ngày để giải quyết tranh chấp thương mại với chi phí bằng 110,3% mức phí được áp dụng ở Papua New Guinea. Giải quyết tranh chấp thương mại thông qua tòa án sơ thẩm địa phương ở khu vực này có chi phí trung bình lên tới 47,2% giá trị khiếu nại, cao hơn gấp đôi mức trung bình là 21,5% của các nền kinh tế OECD.
Rita Ramalho – một trong các tác giả của báo cáo nhận định gỡ bỏ rào cản kinh doanh là biện pháp tích cực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cải cách liên tục là chìa khóa để cải thiện môi trường kinh doanh trong nước và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân.
"Chúng tôi đã nghiên cứu vấn đề này và kết quả cho thấy có mối liên hệ giữa đơn giản hóa, cải thiện quy định kinh doanh và tốc độ tăng trưởng cao. Dù vậy, đây chỉ là một trong các biện pháp và không thể giải quyết mọi vấn đề", bà nói.
Báo cáo cũng cho rằng điều kiện kinh doanh dễ dàng hơn có thể đẩy cao mức độ khởi nghiệp, từ đó làm tăng cơ hội nghề nghiệp, nguồn thu thuế của chính phủ và thu nhập của người dân. Việc này sẽ hỗ trợ đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu, vốn được Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự báo tăng trưởng 3% năm nay – thấp nhất hơn 10 năm.